Pages

Tuesday, December 28, 2010

Người Việt gian, tham?

Tôi năm nay U60, sinh ra và lớn lên dưới mái trường XHCN, đã du học ở Đông Âu trên chục năm. Luôn tự hào mình là người Việt Nam trong suốt khoảng hơn bốn mươi năm đầu cuộc đời mình.  Chưa bao giờ nghi ngờ đạo đức nhân đạo và tính hướng thiện của người Việt, tức của tổ tiên mình. Thời thanh niên bên trời Âu tôi luôn từng tự hào tự gọi mình là Việt Cộng, từng là chủ tịch Hội sinh viên Quốc tế  toàn Balan nơi tôi học được khoảng 1 tháng trước khi bị Đại sứ quán VN tại Vacsava gọi lên bắt từ chức xuống thành Phó CT phụ trách Học tập …
Nói thế chỉ để biết gốc gác chính trị của tôi rất cộng sản và trong sáng, bởi vì cha ông tôi cũng rất trong sáng và theo cộng sản suốt đời. Về nước, tôi làm việc cho các tập đoàn nhà nước lớn và tiếp tục có điều kiện đi công tác nước ngoài nhiều, làm việc với người nước ngoài rất nhiều. Được đọc và tiếp xúc nhiều, tôi nhận thấy là nước nào họ cũng có những tác giả và tác phẩm nổi tiếng và được nhân dân qúy trọng vì đã nói lên những thói hư tính xấu của dân tộc mình, trong khi người Việt chỉ thích tự khen mình: Người Việt cao quý, Lương tâm Nhân loại …(!), và luôn ép người khác khen mình.
Hôm nay, trên Vietnamnet ông Vũ – một chủ hãng cafe Việt, còn đề nghị: Mỹ và TQ lãnh đạo thế giới về chính trị và kinh tế rồi, còn “lá cờ nhân văn” chưa ai nắm và Việt Nam hãy nắm lấy lá cờ nhân văn đó của thế giới để sánh ngang TQ và Mỹ (!)… thì ngoài sức tưởng tượng và chịu đựng của tôi rồi.
Đấy là lý do trực tiếp làm tôi viết bài này, nên trước khi nói về người Việt như tiêu đề, xin cho tôi có một hai câu về “Lá cờ Nhân văn” thế giới, như sau:
Ông Vũ đã đúng khi nói có Lá cờ Nhân văn thế giới. Nhưng ông đã sai khi nói chưa có ai nắm lá cờ đó, và ông càng sai nữa khi nói Việt Nam có thể nắm lấy Lá cờ đó và lãnh đạo thế giới! Thứ nhất, nếu đã tồn tại một lá cờ nhân văn thế giới, thì nhất định nó cũng đang tồn tại chủ nhân tương xứng, cả hai đều chỉ là khái niệm. Chủ đó phải là dân tộc có tính nhân văn nhất thế giới và được các dân tộc khác công nhận, bởi lá cờ này không thể cướp được, đúng không ạ? Ông Vũ nói nó vô chủ là rất cơ hội (hèn chi ông được tham dự ĐH Đảng X với tư cách doanh nhân, nếu tôi không nhầm?). Nhưng theo tôi, nó đang ở trong tay dân tộc nào, đất nước nào đang có nền văn hóa nhân văn nhất (ở thời điểm này) thu hút được nhân tài và thế hệ trẻ được cả thể giới đến học, làm việc và ở lại sống nhiều nhất, sinh ra nhiều người tài năng và thành công nhất cho thế giới. Theo ông Vũ, đó sẽ là Việt Nam? Nước ta đang và sẽ thu hút được bao nhiêu người nước ngoài đến học? Ông hãy góp ý thế cho ĐH XI nhé! Chúc mừng ông.
Trở lại với tiêu đề chính, cách đây khoảng gần chục năm, trong một cuộc nói chuyện bạn bè thân, tôi đã hỏi một người Anh một câu và yêu cầu trả lời trung thực: “Nếu phải lột tả người Việt trong một hay hai từ, “mày” sẽ nói thế nào?” “Không được rắc complements!”
Biết ý tôi, không ngần ngại, anh bạn nói luôn: “Câu hỏi này người nước ngoài chúng tao ở VN luôn thảo luận với nhau khi không có người Việt, và đều nhất trí có câu trả lời giống nhau, nhưng không bao giờ dám nói ra với người Việt. Mày là người VN đầu tiên hỏi tao câu này không với ý định muốn nghe một lời khen, nên tao sẽ nói thật, đó là: Greedy Vietnamese” Vâng, đó là: “Người Việt tham lam!”
Dù đã chuẩn bị cho “tình huống xấu nhất” với đầu óc cởi mở nhất, tôi đã choáng váng và cứng họng một lúc không nói được gì. Mãi sau, tôi mới thốt lên đau đớn vì biết bạn mình không nói dối: “Greedy? Why?”  -“Tham lam? Tại sao?”
Bạn tôi cười: “Thì người Việt chúng mày, trừ mày ra, (nó thương hại tôi!), luôn luôn cái gì cũng muốn được, không nhường cái gì cho ai bao giờ: Hợp đồng thì điều khoản ngon nhất, giá phải rẻ nhất, hàng phải tốt nhất, giao hàng phải nhanh nhất, bảo hành phải vô thời hạn, thanh toán thì chậm nhất, và … hoa hồng thì phải khủng khiếp nhất!” Tôi chết đứng! Tôi biết nó nói đúng hoàn toàn. Nó làm thương mại với người Việt và ở VN gần hai chục năm rồi. Nó (và đa số người nước ngoài cũng vậy) nhìn người Việt qua những gì nó thấy ở những cán bộ nhà nước hàng ngày làm việc (đàm phán thương mại) với nó!
Tôi đã từng đàm phán với nó cách đây hơn hai chục năm, và với rất nhiều người nước ngoài khác, chưa bao giờ biết đòi hỏi ai một cent nào từ vô số hợp đồng ngoại thương tôi đã đàm phán và ký kết, nhưng tôi biết tôi là ngoại lệ, nên tôi biết mình có quyền và có thể nhìn vào mắt mà hỏi nó (bạn tôi) hay bất kỳ ai (thương gia nước ngoài) đã làm việc với tôi, câu hỏi đó mà không sợ bị nó/họ cười khinh cho.
“Vậy, tính từ thứ hai “bọn mày” (tôi đã từng cùng nó có dịp uống bia trong các câu lạc bộ doanh nhân người Singapore, Malaysia, Nhật, Anh, Mỹ, Hàn, Pháp…do các Amcham, Eurocham… tổ chức) miêu tả người Việt là gì?”- Tôi dũng cảm tiếp tục, hy vọng lần này sẽ được nghe lời dễ chịu hơn. Câu trả lời là: “Tricky!”, “Tricky Vietnamese!” – “Gian! Người Việt hay gian!”
Tôi hét lên: “Không thể nào! Mày không đang trêu tức tao đấy chứ?!”
Bạn tôi trả lời: “Mày muốn tao trung thực mà?”
“Vậy tại sao lại là gian?” tôi cố gắng chịu đựng. “Vì chúng mày không bao giờ nói thật, nói thẳng, và có nói rồi cũng tìm cách thay đổi nếu có lợi hơn. Chúng mày luôn nghĩ rằng mình khôn hơn người và luôn luôn xoay sở để hơn người khác…”
Tôi ngồi im lặng, điếng người, muốn khóc, và cố uống tiếp vại bia tự nhiên đắng ngắt. Từ đó tôi ghét uống bia. Nó nhắc tôi buổi tâm sự với phát hiện kinh hoàng trên. “Từ đó trong tôi” “tắt ngấm” “nắng hạ”… là người Việt!
Nhưng nội dung và diễn biến của cuộc nói chuyện thân tình trên thì tôi dù muốn cũng không bao giờ quên được. Sự thực là tôi đã phải trăn trở rất nhiều, dằn vặt rất nhiều với điều này từng ngày từ đó: Đặc điểm bản chất của người Việt là gì so với người nước khác? Tại sao người nước ngoài lại đang nhìn chúng ta tệ hại như thế: Gian và tham?
Tôi đã không thể phản bác được ông bạn người Anh của mình dù tôi với nó “cùng ngôn ngữ”: đều mê The Beatles! Có ăn nhằm gì đâu! Nó vần bảo lưu quan điểm!
Một lần gần sau đó tôi trở lại đề tài với nó: “Tại sao mày nói người Việt rất tham lam, cái gì cũng muốn, và gian, cái gì cũng khôn lỏi hơn người, mà mày vẫn làm ăn với chúng tao?”. Bạn tôi cười bí hiểm trả lời: “Đấy chính là bi kịch của người Việt, ít nhất là của những người Việt đang không có quyền thế hiện nay.” Rồi nó tiếp: “Chính vì người Việt gian và tham nên chỉ có những người gian và tham hơn mới dám làm ăn cùng chúng mày!”
“Ý mày nói đa số thương nhân nước ngoài làm việc với VN là gian và tham?” “Gần như đúng thế!” “Cả mày nữa?” “Gần đúng, vì lúc đầu tao cũng không gian, nhưng tao mất nhiều quá và buộc phải chơi theo cách của người Việt thôi…”
“Vậy mày gian thế nào?”
Bạn tôi lại cười bí hiểm: “Nói mày đừng buồn, đa số người Việt kém tiếng Anh, và hầu hết kém luật pháp thê thảm, nhất là luật thương mại. Càng chức to thì điều này càng đúng, mày là lính quèn nên khá giỏi. Hì hì, mà tiếng Anh là của bọn tao, luật pháp các nước khác cũng đều đi trước VN, nên chúng tao chỉ có cách dùng tiếng Anh kém cỏi vô nghĩa của chính chúng mày để làm hợp đồng thương mại, và luật thương mại quốc tế nữa…thì chúng tao mới bình đẳng được!”
Rồi nó bồi thêm: “Thế mày nghĩ bọn tao có thể cung cấp hàng tốt nhất, giá rẻ nhất, thời hạn nhanh nhất với trách nhiệm vô hạn được thật à?!”
Đó là câu chuyện của hơn 10 năm trước. Tôi đã kiểm tra độ khách quan của đánh giá đó suốt 10 năm qua với rất nhiều người nước ngoài từ các vùng, miền, đất nước có văn hóa và chính trị khác nhau, mà tôi có thể tiếp cận. Đa số câu trả lời kiểm chứng (không phải tất cả) xác nhận sự khách quan và tính gần đúng của nhận xét của bạn tôi.
Nhận xét đó đã bắt tôi suốt hơn mười năm qua phải tìm hiểu văn hóa và bản chất dân tộc ta là gì? Tại sao chúng ta lại để đến nông nỗi này – để người khác nghĩ và đánh giá mình là dân tộc gian, tham?!
Người Việt gian tham ư?! Đau xót lắm, nhưng tôi vẫn không phản bác được bạn mình, với những gì tôi và chúng ta vẫn thấy xung quanh trên đất nước chúng ta… Nó là cái văn hóa gì ?!
Hôm nay, có lẽ tôi đã trả lời được câu hỏi đó cho mình. Dân tộc ta không phải thế!
Có những hạt sạn đã được vô tình hay cố ý gieo vào đạo đức, lối sống dân ta mà có lẽ người gieo cũng không muốn và không biết mình đã làm gì?
Chúng ta phải đợi đến vụ gieo hạt sau thôi?
Trần Thành Nam
( Bài tác giả gửi cho bọ)

Saturday, December 25, 2010

Tiếng Cú

Tưởng Năng Tiến
 
Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?
Trong biên bản hội thảo “Góp ý với Văn kiện đại hội Đảng CSVN”, đọc được trên Đàn Chim Việt Online – vào ngày 11 tháng 11 năm 2010 – TS Lưu Bích Hồ đã nêu lên mấy câu hỏi, cùng với câu trả lời, dễ ợt:
Nền tảng của xã hội ta là gì? Tôi xin hỏi ý kiến các anh? Đảng có dựa vào công nhân không? Có dựa vào nông dân không? Tôi nghĩ không? Vậy dựa vào cơ sở nào? Có dựa vào trí thức không? Cũng không nốt!
- Ủa, nói vậy thì Đảng dựa vào cái gì cà?
Tui cũng làm bộ hỏi (theo) cho vui vậy thôi, chớ ở Việt Nam thì ngay cả trẻ em cũng biết là Đảng dựa vô “cái gì” rồi? Không tin hỏi thử em Dương Đình Hiếu học sinh lớp 8A, Trường THCS Xuân Phương, huyện Phú Bình là biết liền hà.
Theo báo Lao Động: “Chiều 24.11, em cùng các bạn trong lớp lao động dọn dẹp vệ sinh sân trường. Trong quá trình dọn dẹp em và các bạn có đùa nghịch, té nước vào nhau. Khi đó ông T. là Trưởng CA xã có mặt tại đó quát nhưng em vẫn té nước. Không ngờ, ông T. đã lao đến tát và bóp cổ em. Vừa nói, Hiếu vừa chỉ cho chúng tôi vết xước dài còn hằn trên cổ. Tức giận vì bị tấn công bất ngờ, Hiếu vùng thoát rồi có lời lẽ không hay với ông T...
Ông T. đuổi theo nhưng không bắt được Hiếu, người đàn ông tự xưng là trưởng CA xã đã gọi thêm người dùng xe máy đuổi theo Hiếu đến tận ruộng ngô. Khi bắt được, Hiếu đã bị trói quặt cánh gà rồi dẫn về trụ sở CA xã.
Theo tường trình của Hiếu, tại CA xã ông T. tiếp tục đấm, đá rồi lấy dùi cui nện liên tục vào lưng. Đến khi tỉnh lại, Hiếu thấy mình nằm trên giường trong trụ sở CA xã.
Đến khoảng 17h00 cùng ngày, ông Dương Văn Viễn là ông của Hiếu nhận được thông báo đã ra trụ sở CA xã nhận cháu về. Nhưng trước đó, Hiếu bị buộc phải viết tường trình nhận lỗi.
Ông Viễn cho biết: “Đến ngày hôm sau (25.11) Hiếu kêu đau đầu, đau lưng, có biểu hiện hoảng loạn nên gia đình đã đưa đi bệnh viện.
ca.jpg
Ảnh minh họa, nguồn báo CAND
Trong suốt cuộc đời còn lại, em Hiếu e sẽ còn nhiều lần bị “hoảng loạn” và được đưa đi “bệnh viện” (nữa) vì ngoài công an xã, công an khu vực, công an phường, công an huyện, công an tỉnh, công an thành phố, công an thủ đô – mai hậu – em sẽ phải đối mặt với đủ kiểu, đủ cỡ, và đủ loại công an khác nữa: công an văn hoá, công an giao thông, công an mạng, công an vũ trang, công an kinh tế, công an tôn giáo, công an biên phòng, công an phòng chống tội phạm, công an môi trường, công an an ninh, công an hình sự, công an tư pháp, công an hải quan, công an phi trường, công an bến cảng, công an nhà văn, công an nhà báo…
Theo Wikipedia, Việt Nam hiện có một ông Bộ Trưởng Công An cùng với mười ông thứ trưởng, và hàng trăm ông sĩ quan cấp tướng, lãnh đạo đủ mọi ban ngành liên hệ. Họ được nhà văn Dương Thu Hương gọi (chung) là “bầy chó berger của chế độ.”
Cái “bầy” này chỉ là phần nổi, và chắc là phần nhỏ, của tảng băng sơn. Còn lực lượng công an chìm, và công an tự phát thì (ôi thôi) không biết bao nhiêu mà kể. Nói tóm lại ở nước ta nơi đâu có ruồi là ở đó có công an – kể cả chùa chiền, giáo đường, miếu đền, hay thánh thất!
Chính sách công an trị không chỉ hiện hành tại Việt Nam. Những nước XHCN anh em khác – Bắc Hàn, Cu Ba, Trung Cộng… – cũng áp dụng thể chế tương tự và đều (có vẻ) thành công tốt đẹp!
Chưa ai nghe nói đến một cuộc đình công hay biểu tình nào ráo (trọi) ở Cu Ba, hay Bắc Hàn. Ở Trung Cộng thì những vụ “khiếu kiện đông người” tuy có xẩy ra nhưng vô cùng hạn hữu, và đều được giải quyết (đẹp) trong một thời gian kỷ lục. Những nhân vật đối lập hay bất đồng chính kiến, tất nhiên, đều hiếm hoi như… lá mùa thu!
Lực lượng công an ở Việt Nam – tiếc thay – không (còn) có khả năng trị an một cách hữu hiệu tương tự. Ở xứ sở này, chuyện đình công cũng như khiếu kiện xẩy ra như cơm bữa. Còn những nhân vật bất đồng chính kiến thì lại xuất hiện hơi nhiều – dù giới người này vẫn bị bắt bớ, giam cầm, hay sách nhiễu đều đều.
Vụ án mới nhất mới diễn ra ngày ngày 26 tháng 10 năm 2010. Sáng hôm đó, toà án tỉnh Trà Vinh đã kết án ba nhà sáng lập Công Đoàn Tự Do – Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đoàn huy Chương, Đỗ Thị Minh Hạnh – tổng cộng 23 năm tù với tội danh là “lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động và tiền lương của công nhân để tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình.” (Chúng tôi xin trở lại vấn đề này, trong một bài viết khác, cũng trên diễn đàn này.)
Và người bị bắt giữ mới nhất (vào ngày 4 tháng 11 năm 2010) là luật sư Cù Huy Hà Vũ. Về sự kiện này, bỉnh bút Ngô Nhân Dụng của nhật báo Người Việt – phát hành từ California, hôm 9 tháng 11 năm 2010 – đã bình luận như sau:
Ðảng ra tay bắt Cù Huy Hà Vũ, nhưng vụ bắt bớ này lại được đạo diễn rất vụng về, ngớ ngẩn, có thể gọi là lố bịch!
Nhiều người Việt Nam thấy thế rất buồn. Ðây là một bằng cớ cho thấy ngay cả bộ máy công an cũng bất lực thê thảm! Ðáng buồn, vì xưa nay công an là guồng máy chạy tốt nhất ở trong đảng Cộng Sản Việt Nam. Kỹ sư công chánh có thể xây cầu chưa xong đã sập. Bộ Giáo Dục có thể bất lực để cho trẻ em ở thôn quê thất học; đào tạo sinh viên ra trường đến hãng ngoại quốc nào người ta cũng phải huấn luyện lại. Hải quân có thể bất lực không bảo vệ được ngư phủ Việt Nam, để cho ‘tàu lạ’ cướp thuyền, cướp máy móc và tôm cá, bắt cóc, đòi tiền chuộc! Cả guồng máy cai trị có thể bất lực để cho nước cống phềnh lên tràn ngập các thành phố Sài Gòn, Hà Nội; đêm đêm dân nằm ngủ nghe tiếng nước chảy dạt dào dưới gậm giường, người này lại đổ cho người kia! Tất cả các cơ quan cai trị có thể làm ăn bết bát, không đâu vào đâu cả; nhưng công an xưa nay vẫn là bộ máy chạy tốt nhất, không ai chê được... Bây giờ chính guồng máy có công suất tốt nhất đó lại làm ăn loạng choạng! Nhiều người rất thất vọng!
...
Một cách giải thích giản dị, là thực sự công an nó như vậy, khả năng của nó không hơn gì các kỹ sư làm cột xi măng cốt tre cả! Xưa nay người ta cứ sợ công an, không phải vì họ giỏi, mà chỉ vì họ đông quá, lấy thịt đè người.
Xin được thưa trước, và nói liền rằng trong số “nhiều người Việt Nam thấy thế rất buồn” và “rất thất vọng” (về cách làm ăn “loạng choạng” của lực lượng công an) không có em đâu đó nha. Tôi chưa bao giờ có chút kỳ vọng nào vào qúi ông qúi bà công an nên không có lý do gì để thất vọng, và cũng không cớ chi để buồn phiền về sự “bất lực thê thảm” của họ hiện nay.
Buồn bã không, thất vọng cũng không (luôn) nhưng lo âu thì… có! Loạng choạng là tư thế suýt ngã hay sắp đổ. Coi: lỡ sáng mai, chiều mốt, tuần sau, hay tháng tới mà cái giàn “xi măng cốt tre” đang chống đỡ chế độ gẫy cái rụp là chết (mẹ) cả đám. Mà ngó bộ thì nó muốn đổ thiệt (và đổ tới nơi) rồi, chớ đâu phải chuyên giỡn – mấy cha?
Cái lực lượng “xi măng cốt tre” này, được một nhà báo khác, ông Bùi Tín – người sống gần hết đời mình trong lòng cách mạng – mô tả một cách rất… đơn sơ và ngắn gọn:
Dưới danh hiệu Công an Nhân dân, dưới khẩu hiệu Công an là bạn dân, trong con mắt của đông đảo người dân lương thiện, công an bị đánh giá là bọn kiêu binh tệ hại nhất, dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược, bị nhân dân xa lánh, khinh bỉ nhất.
Sau hơn nửa thế kỷ “dùng quyền lực để hà hiếp, bóc lột, làm tiền, cướp đất, cướp nhà cửa, của cải của nhân dân một cách ngang ngược,” chuyện gì sẽ xẩy ra cho “bọn kiêu binh tệ hại nhất” này – khi họ không còn súng đạn trong tay?
Câu hỏi được đặt ra (e) hơi bị muộn nhưng muộn còn hơn không. Bên cạnh những vấn đề cấp thiết khác trước mắt (đạo đức xã hội suy vi, tình trạng sắc tộc căng thẳng, an ninh lãnh thổ bị đe dọa, tài nguyên và ngân sách quốc gia bị thao túng, môi trường bị hủy hoại…) tưởng chúng ta cũng cần phải quan tâm và chuẩn bị để giảm thiểu (tối đa) cảnh bạo loạn – trong tương lai gần – khi mà những cô chú công an (bỗng chốc) biến thành đích nhắm cho mọi người trút sự thù hằn, oán hận, và phẫn uất đã chất chứa hơn nửa thế kỷ qua!
Tôi tin rằng đã đến lúc mà lòng bao dung, đức nhân ái, và tính độ lượng (vốn) tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc Việt cần phải được khơi dậy và đề cao hết mức. Trong tinh thần này, giữa lúc làn sóng phẫn nộ dâng cao – ngay sau khi một đoạn video được cho là của lực lượng công an phòng chống tệ nạn mại dâm, vừa được tung lên YouTube – những lời lẽ cảnh cáo nhẹ nhàng, và ôn tồn của blogger Mai Xuân Dũng thật đáng trân trọng:
Tranh Goya. Nguồn: blog Mai Xuân Dũng
Cũng là một lũ bần cùng khố dây khố rợ cả, nên thương nhau thì hơn. Bức tranh tôi có post lên đấy, các chú xem nhé: bão cát thì ngập đến đầu gối các chú rồi, bão đang to lên lắm, liệu mà nương nhờ nhau cho khỏi cát vùi bão dập thì hơn chứ đừng làm cái chuyện bẩn thỉu như vậy. Nếu các chú là con người, cũng có vợ và con cái như những người khác thì hối đi kẻo không kịp.
Trước viễn cảnh “cát vùi bão dập” sắp tới, nhà văn Dương Thu Hương cũng vừa ân cần nhắc nhở mọi người đừng quên rằng giữa “bầy chó berger của chế độ” không thiếu những người trung thực và tử tế:
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng toàn thể các sĩ quan công an đều là bọn mafia, đều là quân cướp. Bởi, nói như vậy là vu khống, là hàm hồ... Trong đám công an, không thiếu những người trung thực, theo ngôn ngữ bình dân, người tử tế. Chỉ có điều họ đã trở thành thiểu số và họ gần như vô năng.
Những kẻ “thiểu số vô năng” này, tất nhiên, đều vô tội. Còn cái đám đa số còn lại (cũng) chỉ là nạn nhân của một thể chế bạo ngược, và bất nhân thôi. Nói rộng hơn, theo nhà văn Uyên Thao: ”Mọi con dân Việt Nam, vì thế, đều trở thành nạn nhân bi thảm vì bị tước đoạt mọi quyền sống, bao gồm trong đó không ít nạn nhân đã và đang còn đóng vai thủ phạm gieo rắc tội ác không chỉ cho đồng loại mà cho ngay cả bản thân.
Nghĩ cho cùng họ vẫn đáng tha thứ hơn là trừng phạt. Hơn nữa, hơn nửa thế kỷ qua, có người dân Việt nào dám tự hào nói rằng mình hoàn toàn (và tuyệt đối) không bị ảnh hưởng, hay lây nhiễm tính vô cảm và thói bạc ác của chế độ hiện hành?
Nói thế (e) bao dung và độ lượng quá chăng? Biết thế nhưng với hiện cảnh, và với lịch sử của một dân tộc đã triền miên sống giữa cảnh bom đạn máu lửa, giữa oán hận chất chồng, và nghi kỵ phân hoá – kéo dài hết từ đời này sang đời khác – liệu có lựa chọn nào khác (thế) không?
© Tưởng Năng Tiến

THƯ HÀ NỘI

Bất cứ Người Việt Nam nào thường xuyên theo dõi hiện tình đất nước thì đều nhận thấy rất rõ rằng lòng dân trên khắp mọi miền đất nước đã quá chán ngán, căm phẫn đa số các cán bộ của Đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam đương quyền. Bất cứ cương vị cán bộ nào từ thôn, ấp, xã, phường, huyện, tỉnh, trung ương đang ngày đêm vơ vét, ăn quỵt, cướp bóc, hoành hành làm điêu đứng cả xã hội, nhân quyền và tự do tôn giáo bị vi phạm nghiêm trọng, cộng đồng dân tộc bị chia rẽ sâu sắc. Thậm chí, những người dân càng hiền lành, chất phát, lao động chân chính bao nhiêu thì lại càng bị những kẻ thống trị trấn áp, cướp giật nhà  cửa đất đai, bị đẩy đến tận cùng của sự nghèo đói, oan khuất và ly  tán.
Xã hội gần như là rơi vào tình trạng vô chính phủ, từ trung ương tập
quyền tới địa phương cát cứ, quốc nạn tham nhũng tràn lan, tính dối
trá và sợ hãi sự thật bao trùm lên cả nước. Tinh thần quốc gia dân tộc  bạc nhược. Người dân sống ở đâu cũng lo sợ nhân tai, nhân họa đến từ  các Cơ quan công quyền, đi đâu cũng phải lo tiền đút lót, hối lộ cho  nhân viên từ hộ lý, y tá, bác sỹ trong bệnh viện đến giáo viên trong  trường học, hay các ngành, các cấp, các cơ quan dịch vụ, truyền thông, công quyền. Cả dân tộc đang phải sinh tồn trong bất ổn trước sự lộng  hành của lưc lượng công an, an ninh, mật vụ. Và, chưa biết bao giờ  nhìn thấy được ánh sáng tương lai tốt đẹp thật sự.
Sự mua bán chức, quyền, bằng, cấp gần như công khai. Nếu muốn mua chức  Cục trưởng, Vụ trưởng, Sư đoàn trưởng hay muốn được phong cấp tướng  phải mất vài tỷ đồng. Chạy chức thứ trưởng phải mất 5-7 tỷ đồng. Chức  Bộ trưởng phải tính tiền triệu đô la Mỹ. Dư luận ở Hà Nội biết rõ việc  Ông Lê Thế Thảo chạy chức Chủ Tịch UBND Thành phố Hà Nội mất hơn 30 tỷ  đồng. Rồi chuyện các Lãnh đạo cấp cao của ĐCSVN có nhiều triệu đô la  Mỹ. Mỗi ủy viên trung ương Đảng CSVN hàng năm cũng vơ vét được vài  chục triệu đô la Mỹ là chuyện thường. Cái danh sách tên 300 vị có chức, quyền của đảng và nhà nước CHXHCNVN đã và đang có hàng trăm  triệu đôla đến hơn vài tỷ đô la Mỹ mà rất nhiều người đều biết được loan tải trên mạng internet lâu nay. Rồi chuyện Cựu Bộ trưởng Lê Ngọc
Hoàn có hơn 50 cái Vi-la khắp cả nước, có con riêng 7-8 tuổi. Và mấy  ông Bộ trưởng về hưu khác cũng có con riêng nhưng báo chí cấm được viết về những hiện tượng này. Rồi chuyện ông Trịnh Trọng Quyền - Cựu bí thư tỉnh ủy Thanh Hóa lập Công ty riêng cho con trai để tham gia các thầu xây dựng đường sá trong tỉnh và luôn thắng thầu (theo tin từ Cán bộ đảng viên cao cấp của ĐCSVN). Sau đó bán lại thầu ngay tức khắc lấy 5% tổng giá trị gói thầu. Rồi chuyện lãnh đạo Công ty Gang thép Thái Nguyên cho con mua lại nhà máy thép cũ như là cướp luôn cả nhà máy để bán sắt vụn kiếm tiền. Chuyện Thượng tướng, thứ trưởng Bộ Quốc Phòng, UV TƯ ĐCSVN Nguyễn Huy Hiệu bị một phụ nữ đưa con đến Cơ quan Bộ Quốc Phòng đòi ông Hiệu nhận là con đẻ.
Trong nhiều năm qua, công luận Việt Nam lưu truyền sự kiện ông Đỗ Mười nhận 1 triệu USD hối lộ của một Công ty Hàn Quốc. Chuyện ông Lê Đức Anh bị xuất huyết não và nhà cầm quyền Bắc Kinh cử một phái đoàn bác sỹ đặc biệt sang cứu sống. Từ đó ông Lê Đức Anh mang nặng thâm ơn CS Trung Quốc. Hàng năm Trung Quốc vẫn cử một đoàn cán bộ y tế sang kiểm tra, bồi dưỡng sức khỏe cho ông Lê Đức Anh để bằng mọi giá giúp ông Lê  Đức Anh sống lâu hơn. Đây là hành động thể hiện “Thiên Triều” bảo  dưỡng một “tên Thái Thú - Chư Hầu”.
Chính ông Lê Đức Anh là người quyết định toàn bộ quá trình bình thường hóa quan hệ giữa ĐCSVN với ĐCSTQ, nó hoàn toàn bất thường tới mức:
Lãnh đạo ĐCSVN phải xin ý kiến Bắc Kinh và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán,,,. Đây là bằng chứng rõ ràng Lãnh đạo ĐCS Việt Nam chịu làm Chư hầu, Thái thú, đàn em, làm một tỉnh của TQ hay TQ bảo gì phải nghe nấy. Theo các vị Lão thành cách mạng từng lãnh đạo, cấp trên của ông Lê Đức Anh như ông Phạm Văn Xô (Cựu phó ban Tổ chức TƯ ĐCSVN), Đồng Văn Cống (Cựu phó Tổng Thanh tra QĐNDVN) và Nguyễn Văn Thi (Cựu chủ nhiệm hậu cần Bộ tư lệnh Miền Nam) thì ông Lê Đức Anh đã khai man lý lịch cá nhân và khai man tư cách Đảng viên đảng CS: “Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai mà là người giúp việc thân cận cho chủ đồn điền De Lalant-một sỹ quan phòng nhì của Pháp. Ông Lê Đức Anh chưa bao giờ được kết nạp vào ĐCSVN”, ấy thế mà tự khai là Đảng viên ĐCSVN từ trước năm 1940, nay đã hơn 70 năm tuổi đảng. 
Ông Lê Đức Anh, ông Đỗ Mười và Nguyễn Chí Vịnh cũng đã từng cùng dựng ra vụ Sáu Sứ-Năm Châu để vu khống Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Trần Văn Trà cùng với tay chân định lật đổ Bộ Chính Trị và chính quyền trong dịp Đại hội 7 ĐCSVN, năm 1991. Còn vụ T4 thì ba ông trên đã dựng chuyện quy kết Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Trần Văn Trà, TT Võ Văn Kiệt, TT Phan Văn Khải, CT QH Nguyễn Văn An, bà Võ Thị Thắng,,, là tay sai của tình báo CIA-Mỹ nhằm mục đích triệt hạ uy tín các đối thủ để xây dựng Phe thân CS Trung Quốc, làm tay sai cho Bắc Kinh. Thời kỳ ông Lê Đức Thọ còn sống mỗi khi ông Lê Đức Anh là đệ tử ruột được truyền ngôi đến thăm và đi ra khỏi nhà ông Thọ đều phải đi thụt lùi không dám quay lưng vào nhà ông Lê Đức Thọ. Có ý kiến, nhận định rằng hầu như 100% các sỹ quan
 quân đội cao cấp của CHXHCN Việt Nam hiện nay đều rất căm ghét „cha con“ ông Lê Đức Anh - Nguyễn Chí Vịnh (con nuôi). Nhưng, hầu hết các cấp tướng lĩnh lại rất quý trọng Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Người Anh cả của QĐNDVN. Nhiều nhân sỹ, trí thức, các cựu cán bộ cao cấp của ĐCSVN và nhân dân khắp nơi phải lên tiếng, thậm chí kêu gọi “lật đổ, đảo chính quân sự” thì mới đây Lãnh đạo ĐCSVN đã phải mời Mỹ và Nga vào hợp tác với ASEAN. Ngay lập tức cách đây vài tuần trên Vietnamnet ông Lê Đức Anh có bài viết có nội dung rằng Ông là người đầu tiên bảo trợ cho quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ từ những năm 1986 qua việc cứu giúp một ông Bác Sỹ. Chuyện này có thật hay không?
Chuyện con dâu ông Lê Đức Anh là bà Nguyễn Thị Doan cũng nhờ cậy thế thần của bố chồng hiện nắm giữ chức Phó Chủ tịch nước. Qua những chứng cứ trên cho thấy rằng ông Lê Đức Anh là trụ cột cho quan hệ CS Việt  Nam - CS Trung Quốc sau năm 1991. Ông Lê Đức Anh, một con người gian trá, xảo quyệt, vu khống dựng chuyện nói xấu các Đại Công Thần thời Cách mạng tháng 8 còn sống đồng thời đẩy đất nước vào tình trạng bị Trung Quốc thôn tính toàn diện, một người hoàn toàn không có tư tưởng triết lý, lý luận gì, mà chỉ có ít mưu mô quỷ quyệt. Hiện tại đất nước ta vẫn  nghèo đói, chậm tiến mọi mặt. Hệ thống chính trị độc tài, tham nhũng thối nát » Ÿ khắp mọi nơi. Lê Đức Anh đã sống và làm việc chỉ vì lợi ích cho cá nhân và chính con cháu ông ấy, chứ hoàn toàn không vì đất nước, vì dân tộc gì cả. Nhân dân Việt Nam không thể chấp nhận một “Nhà chính trị” độc ác và tàn bạo, xấu xa như vậy được. Phe đảng của ông Lê Đức Anh - Đỗ Mười thực sự đã hết thời, cần phải chấm dứt một hệ thống cai trị cổ hủ, độc quyền trên đất nước Việt Nam một cách sớm nhất!
Ông Nông Đức Mạnh có một khu trang trại rộng lớn ở tỉnh Thái Nguyên. Ông Mạnh thường xuyên đuổi vợ về quê, hàng ngày ông Mạnh sống ở Villa tại Hồ Tây có diện tích 500 m2, có „gái chân dài“ vào phục dịch hàng ngày (nguồn tin khá tin cậy cung cấp rằng Tổng Cục II bảo kê 100%).
Bên cạnh có khu Villa của em ruột cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tất Trung có diện tích là 150m2. Cộng Sản Bắc Kinh khẳng định rằng ông Nông Đức Mạnh đã tự nhận mình là người dân tộc Choang của Trung Quốc. Trong nhiều chỉ thị của lãnh đạo đảng, ông Nông Đức Mạnh nêu v/đ “đất rừng VN chưa dùng đến thì để cho người khác thuê cũng được chứ sao?”. Hầu hết các trí thức và người dân Việt Nam ai cũng phê phán và chán ghét ông Mạnh. (Một tiến sỹ, cựu giảng viên ĐHBKHN và ĐH Mỏ Địa chất, nguyên thành viên Ban hiến kế cho Bộ chính trị nói: Ông Nông Đức Mạnh trí tuệ kém lắm, suy nghĩ và nói năng không có một chút lô-gíc nào cả.
Ý kiến của  một anh nông dân, lái xe ở Nghi Lộc, Nghệ An nói: Ông Nông Đức Mạnh đầu óc tối tăm, không có sáng kiến gì, không làm được gì cho dân, cho nước. Các Cụ Lão thành thì khẳng định “ Nông Đức Mạnh đã ngả hẳn vào lòng Trung Quốc rồi”) .  Ông Nông Đức Mạnh đã câu kết chặt chẽ cùng với Nguyễn Chí Vịnh là hai nhân vật quyết định cho TQ vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm tạo nên một „cửa ngõ” thuận lợi và,hợp pháp“ để cho CS Trung Quốc tiến hành xâm lược và thôn tính nước ta. Đây là một trọng tội không thể tha thứ được! Con trai ông Nông Đức Mạnh là Nông Quốc Tuấn sinh năm 1963, đã đi xuất khẩu lao động ở Đông Đức mà khi trở về VN lại làm đến chức Chủ tịch Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam, rồi Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang, để dọn đường chuẩn bị vào Bộ chính trị Trung Ương ĐCSVN, rồi kế tục ông Mạnh chăng? Mấy ngày vừa qua hàng chục nghìn người dân Bắc Giang biểu tình đòi giải quyết vụ một thanh niên bị CA đánh chết và chứng kiến Nông Đức Tuấn, Bí thư Tỉnh Ủy Bắc Giang vẫn đưa 2 đầu bếp từ Hà Nội về để nấu món thịt cừu, ăn nhậu phả phê, thiết đãi bạn bè thì thử hỏi ý thức và trí tuệ của một “chính trị gia” vì nhân dân ở chỗ nào? Vậy Phe cánh của cha, con ông Nông Đức Mạnh có xứng đáng là những “chính trị gia” và lãnh đạo đất nước có hơn 4000 năm văn hiến hay không?
Ông Nguyễn Phú Trọng, Chủ Tịch Quốc Hội, là một “Lý thuyết gia” của ĐCSVN, một tiến sỹ triết học Mác-Lê-Mao nhưng nói năng không có một chút triết lý hay lý luận gì. Một Nhà chính trị phải có tư tưởng
riêng, lý luận riêng, chính kiến riêng, có chí khí, có lòng dũng cảm,
có nhiều sáng kiến, có tư duy lô-gíc và sâu sắc, có ý thức luôn giữ
cho mình trong sạch nhất có thể và phải đạt quyền lợi của đất nước và dân tộc mình lên trên hết. Nhưng, thực tế thì ông Nguyễn Phú Trọng không làm được gì cả, ông chưa thể hiện được giá trị gì cho đất nước. Ông Nguyễn Phú Trọng còn công khai ủng hộ  cho Trung Quốc vào Tây Nguyên khai thác Bauxite nhôm, ý kiến vô trách nhiệm của ông Trọng:
Quyết „Ngăn cản không cho QHVN  bàn về dự án bauxite,…và lừa rối rằng:
“Dự án Bauxite có vốn đầu tư chỉ dưới 600 triệu USD”. Vậy thử hỏi ông Nguyễn Phú Trọng vì quyền lợi của đất nước và quyền lợi của dân tộc ở chỗ nào? Ông và ông Phạm Quang Nghị cũng là hai người được cử sang Trung Quốc thực tập làm Tổng bí thư của ĐCSVN khóa này. Đây rõ ràng là để  bằng chứng làm tay sai cho Trung Quốc, chịu thua Trung Quốc, Trung Quốc can thiệp vào nội bộ của dân tộc Việt Nam chúng ta. Nếu hai Ông ấy là những Chính trị gia tài giỏi thì không bao giờ chấp nhận sang TQ thực tập để làm Tổng Bí Thư giả tưởng - đó là hành động nhục nhã, cúi đầu quy phục Trung Quốc! Trong dịp ĐH ĐCSVN năm 2006 ông Giả Khánh Lâm là Ủy viên BCT, CT QH Trung Quốc còn sang Hà Nội đặt một „ Bộ chỉ huy“ để theo dõi và chỉ đạo ĐH của ĐCSVN (theo tin của cán bộ cao cấp của ĐCSVN). Hiện nay còn có tin BCT ĐCSVN phải báo cáo tình hình nhân sự từ cấp tỉnh hay các cấp bí thư từ cấp quận, huyện đều phải sang Trung Quốc tập huấn chính trị. Ở các tỉnh Biên giới giáp với TQ thì phải báo cáo nhân sự từ cấp huyện trở lên đối với những huyện giáp biên giới với TQ. Vậy Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung Ương ĐCSVN đã hoàn toàn là bù nhìn!
Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên là một viên cứu thương trong một đơn vị địa phương quân ở chiến khu Cà Mau. Khi còn là một người lính, với tin đồn khá chính xác là con của một Đồng chí của ông Võ Văn Kiệt (nhưng cũng có tin là con rơi của cựu Đại tướng Nguyễn Chí Thanh). Ông Nguyễn Tấn Dũng nguyên trình độ chưa học hết cấp I, sau năm 1975, học tại chức mà đỗ đạt tới cử nhân luật (không rõ từ năm nào đến năm nào, ở trường nào, ai là thầy dạy?), ông ta tự khai, thân thể mang tới 32 vết thương. Một người bạn của ông Dũng nay làm quan lớn ở tỉnh Thanh Hóa nói rằng ngày trước phải luôn giúp làm hộ bài, chép bài thế cho ông Dũng vì ông Dũng không biết gì cả. Vậy một Chính trị gia lại học dốt, để cho bạn chép bài hộ à? Nhân dân Việt Nam chưa nghe thấy ông Dũng không có tư duy riêng, cũng chẳng có lý luận gì hết. Ông chưa nói được câu nào chúng ta thấy có giá trị, thấy có lô-gíc, hoàn toàn không có tố chất chính trị gì cả. Ông lại là một người ba phải. Khi ông Võ Văn Kiệt còn sống thì ông Dũng có chỗ dựa nên còn dám chống lại Phe tay sai Trung Quốc của ông Nông Đức Mạnh. Khi ông Kiệt chết thì ông Dũng ngả hẳn theo Phe ông Nông Đức Mạnh + Nguyễn Chí Vịnh. Gần đây, ông
 Dũng đi ký hợp tác làm ăn với mấy địa phương trực thuộc mấy tỉnh của Trung Quốc. Rõ ràng là hành động của “một chính trị gia rừng tràm U Minh hạ”. Đất nước ta, dân tộc ta chỉ ngang hàng với một địa phương, một tỉnh của Trung Quốc hay sao? Làm như vậy TQ sẽ „phỉ nhổ“ và mặt ông Dũng - Thủ tướng CHXHCN Việt Nam . TQ  chỉ xem Việt Nam như một tỉnh, một địa phương nhỏ của họ, sẽ vô cùng thiệt hại, tai hại cho các ngành, nghề giao thương, hàng hoá Việt Nam ”. Đây là một hành động thiển cận phục vụ ý đồ thôn tính nước ta của TQ. Ông Dũng lại cho xây dựng nhà thờ họ ở quê tốn tới 40 tỷ VNĐ, trong khi dân chúng đói khổ và thiếu việc làm khắp nơi, trẻ em thiếu trường, lớp học, bệnh nhân không gường nằm, người ốm đau thiếu thuốc men, dân chúng sinh sống không điện, nước. Trong nội bộ cơ quan Trung ương loan tin rằng “Doanh nghiệp nào muốn ông Dũng đến thăm thì phải chi 1, vài trăm triệu đồng cho ông Dũng và cho trợ lý của ông Dũng cũng phải 50 triệu đồng là ít”. Nghe tin con ông Dũng ở Tây Nguyên hay đứa ở lấy chồng ở Mỹ đang sống như đế vương vậy. Các quan sếp tỉnh hay cac cơ, ngành… làm gì cũng phải chạy đến hỏi con ông Dũng. Và, mỗi lần hỏi, cậy nhờ là phải có „bao thư xanh“.
Dũng vẫn tưởng trò ranh ma hơn người là gả con gái cho con của sĩ quan VNCH  "kẻ thù  không đội trời chung  với CS“ đã vượt biên hiện đang cư ngụ ở Hoa Kỳ để  làm phương tiện hay cứu  cánh cho hành động ăn cướp và bỏ chạy khi lâm nguy.  Nhà chính trị phải chứng tỏ mình thông minh, tài trí, cao siêu, cao thượng để nhân dân và thế giới nể phục, chứ như ông Dũng thì không ai có thể nể trọng được.  
Ông Phùng Quang Thanh nghe tin đồn thổi là con cháu mấy đời của ông Phùng Khắc Khoan, cũng  như các vị Ủy viên BCT ĐCSVN khác chẳng có gì đặc biệt. Từ lúc 17-18 tuổi vào bộ đội làm lính binh nhì thì làm sao có thể trở thành một chính trị gia giỏi được? Ông Thanh cho TGĐ Công ty xăng dầu Quân đội bán xăng dầu dự trữ quốc phòng để kiếm chênh lệch bỏ túi hàng trăm tỷ đồng, để khi quân đội cần xăng diễn tập thì không có mà dùng. Ông Thanh còn nhận hối lộ của một Tỉnh đội trưởng hàng tỷ đồng để được phong lên cấp tướng. Trong dịp đi thăm Trung Quốc vừa rồi Báo QĐND viết: “Đồng chí Phùng Quang Thanh lên báo cáo Đồng Chí Từ Huy Hậu”. Ông Từ Huy Hậu chỉ là một viên tướng của Trung Quốc, phó chủ tịch quân ủy TQ, ngang hàng với Thứ trưởng Bộ QP Trung Quốc mà ông Thanh là Bộ trưởng BQP Việt Nam lại phải đến “báo cáo”. Như vậy Bộ trưởng BQP Phùng Quang Thanh chỉ như một Tỉnh đội trưởng lên báo cáo với Thứ trưởng BQP? Đây là một động thái mạt nhược, ươn hèn hiếm có trong lịch sử dân tộc Việt Nam . Tổng biên tập báo QĐND và cá nhân đưa tin đó lên rõ ràng đã bị bàn tay của bọn Tay sai - Thái thú của TQ chèn ép, chỉ đạo hay tự nguyện làm tay sai cho TQ rồi.
Nhân vật, Nguyễn Chí Vịnh ai cũng biết là con Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, một đối trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngày xưa, thuộc phe ông Lê Duẩn-Lê Đức Thọ. Vì vậy ông Nguyễn Chí Vịnh được nhận là con nuôi của ông Lê Đức Anh. Ngày trước đi học tuy là con nhà quyền uy, giàu có nhưng vẫn đi ăn trộm, ăn cắp Kho Quân Nhu của Học viện Kỹ thuật Quân Sự nên bị đuổi học cùng với một số đồng sự khác. Ăn cắp, ăn trộm trong Trường Sĩ Quan-khi đã là người trưởng thành- là chuyện quá ti tiện, hèn mạt, xấu xa, phi đạo đức không ai có thể chấp nhận được thế mà đòi đi làm chính trị, lại còn nhăm nhe lên tới chức Tổng Bí Thư. Một tên ăn cắp thuở nào là thứ trưởng, trung tướng thì ảnh hưởng vô cùng xấu xa đến toàn bộ binh sỹ, sỹ quan QĐND Việt Nam, chưa nói  tới là Ủy viên BCT hay Bộ Trưởng Bộ QP, dự định còn làm TBT ĐCSVN thì sẽ gây nguy hại đạo đức của các Đảng viên ĐCSVN còn có lương tri, nhân cách. Nhưng,  CS TQ- với tư cách là nước muốn thôn tính Việt Nam và muốn biến Việt Nam ta thành nước chư hầu- lại rất cần những kẻ làm tay sai. Chỉ có những kẻ xấu xa, gian trá, dốt nát mới chịu làm tay sai-thái thú cho nước khác để phản lại lợi ích của dân tộc mình, của đồng bào mình để bản thân, gia đình vợ con được hưởng sung sướng, bổng lộc trước mắt của kẻ tay sai-thái thú.
Nguyễn Chí Vịnh như đã ghi nhận ở trên đã tham gia cùng ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh những chuyện rất xấu xa, thiếu nhân cách. Nguyễn Chí Vịnh là người đã gọi điện cho ông Nguyễn Tấn Dũng năm nào nói ông Dũng cho TQ thắng thầu xây sân Mỹ Đình với giá 55 triệu USD, trong khi đó CHLB Đức bỏ thầu chỉ có 50 triệu USD thì thua thầu.Thức tế thì Vịnh và Dũng đã nhận “ tiền lót tay“ của nhà thầu TQ là
 bao nhiêu, có ai biết được? ) Nguyễn Chí Vịnh còn trực tiếp sang Trung Quốc chọn gái tên là Trương Vỹ Hoa cho ông Lê Khả Phiêu chơi bời một tuần để sinh đẻ ra một đứa con nay đã mười mấy tuổi để rồi ông Lê Khả Phiêu phải hạ bút ký Hiệp định Biên giới năm 1999.
Nguyễn Chí Vịnh là „con thoi“ „cầu nối“ giữa ông Nông Đức Mạnh với Bắc Kinh để cho TQ vào VN khai thác Bauxite. Tay chân của Nguyễn Chí Vịnh trong TC2 toàn là những kẻ hư đốn và ăn cắp năm nào ở Học viện Kỹ thuật Quân sự. Nguyễn Chí vịnh đã cung cấp cho phía Trung Quốc danh sách cán bộ lãnh đạo Việt Nam có cảm tình và không có cảm tình với Trung Quốc. Dựa vào danh sách này Trung Quốc đã mua chuộc và gây ảnh hưởng lên hàng ngũ lãnh đạo của ĐCSVN hiện nay để từng bước biến lãnh đạo ĐCSVN trở thành tay sai-thái thú. Đây rõ ràng là một hành động làm chỉ điểm cho nước ngoài, một hành động làm tay sai cho Trung Quốc, một hành động tội phạm, phản bội Tổ Quốc của Nguyễn Chí Vịnh. Nhiều nguồn tin khác nói rằng còn nhiều cá nhân khác trong nội bộ ĐCSVN làm như Nguyễn Chí Vịnh. Theo các sỹ quan quân đội cao cấp ở Hà Nội thì vừa qua 18 tỉnh cho Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông (thực chất là người TQ tất cả) thuê đất rừng đều có sự chỉ đạo của Tổng Cục 2 của Nguyễn Chí Vịnh. Với những việc làm bất hảo và phạm pháp như nêu trên Nguyễn Chí Vịnh có xứng đáng là Trung Tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng hay không? Và đây cũng là bằng chứng chứng tỏ rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Nông Đức Mạnh chủ đích nâng đỡ Nguyễn Chí Vịnh- tên tay sai của TQ, có nhiều điều xấu xa, bất hảo- chẳng hiểu biết gì chính trị cả, mà cốt vì bảo vệ quyền lợi ích kỷ của các ông ấy. Họ không xứng đáng một chút nào là những “Nhà chính trị”, nhà lãnh đạo đất nước hay có trách nhiệm với nhân dân!
Còn các Vị Ủy viên Trung Ương ĐCSVN khác như ông Hoàng Trung Hải hay Nguyễn Thiện Nhân, các Bí thư tỉnh ủy khác thì „chỉ ngậm miệng“ ăn tiền chia chác hay cũng chỉ như cái đuôi, cái bóng của ông Nguyễn Tấn Dũng, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng và một số UV BCT mà thôi,Quốc Nạn tham nhũng, hối lộ, cướp bóc, trấn lột, đánh, bắn, giết người xẩy ra 24/24 trên toàn cõi Việt Nam. Xin mạn phép hỏi toàn thể 85 triệu đồng bào Việt Nam có thể mãi cúi đầu chịu đựng hết đời mình, đời con, cháu chúng ta được chăng?  liệu có thể tiếp tục chấp nhận sự bất công, nghèo đói và vô vọng một khi mà các “Nhà chính trị,  lãnh đạo” của hệ thống độc tài toàn trị CSVN bất tài, vô dụng đang bủa vây, khép kín, đè đầu cưỡi cổ  nhân dân ta hay không? Chắc chắn là không – Toàn dân cẩn phải thức tỉnh và đứng dậy khi thấy cần thiết.
Ở CHLB Đức trong những năm 90 của Thế kỷ trước, ông Engholm- Chủ tịch đảng đối lập SPD, Thống đốc bang, Ứng cử viên tranh chức Thủ tướng với ông Helmut Kohl- bị phát hiện gian lận về việc đóng thuế thu nhập đã phải họp báo xin chấm dứt sự nghiệp chính trị, trở về làm một ông Luật sư quèn. Từ đó vĩnh viễn không bao giờ nói tới chính trị nữa. Còn ông Sharping - nguyên là một người hoạt động chính trị từ thời học sinh cấp 3, Thống đốc bang, có lần ra tranh cử Thủ tướng, là Bộ trưởng Quốc phòng dưới thời Thủ tướng của CHLB Đức là Gehart Shreoder (thỉnh thoảng bây giờ Ông vẫn đến Việt Nam) -  Ông ấy chỉ bị phát hiện “cầm nhầm” có 1000 EURO (một nghìn EU ) mà phải tuyên bố từ chức Bộ trưởng BQP, chấm dứt sự nghiệp chính trị  về làm dân thường, không bao giờ dám xuất hiện trước công chúng nữa. 
Qua những dẫn chứng như trên chúng ta có thể kết luận rằng Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa, Phùng Quang Thanh, Phạm Quang Nghị, Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí Vịnh và các UV TƯ ĐCSVN khác hoàn toàn không xứng đáng là các “chính trị gia” của Dân Tộc ta, không xứng đáng giữ các vị trí lãnh đạo đất nước, cần phải rút lui càng sớm càng tốt! Nếu không biết điều sớm thì e rằng sẽ chuốc lấy hậu họa như ông Ceaucescu-cựu Tổng bí thư ĐCS Rumani- và Honecker- cựu Tổng bí thư ĐCS Đông Đức năm 1989, hay ông Escada-cựu Tổng thống Philippin- tham nhũng 1 triệu USD và bị kết án 20 năm tù giam. Bài học gianh ma của cựu Thủ tướng Thái lan, Thalshin  không thoát khỏi “lưới trời“ đã bị tịch thu tài sản và lệnh
 truy nã toàn cầu… 
Tình hình quốc tế và khu vực hiện hiện nay đang diễn ra khá thuận lợi cho hướng đi đúng đắn của cuộc đấu tranh giành tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng và bác ái cho dân tộc Việt nam chúng ta. Lực lượng đối lập chính nghĩa với Phe đảng chóp bu cầm quyền phi nghĩa nêu trên (họ chỉ là một bộ phận nhỏ trong số đảng viên ĐCSVN) Toàn dân Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước sẽ có đủ khả năng trí tuệ, nhân tài, vật lực đối trọng đã và đang hình thành là đòi hỏi bức thiết trong nước. LL đối lập với bốn vị tướng đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung Tướng Đồng Sỹ Nguyên, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh với hàng chục tướng lĩnh khác cùng các vị Lão thành cách mạng kết hợp với các lực lượng trí thức, quân đội, cảnh sát, sinh viên, quần chúng yêu nước đang khát khao Tự Do – Dân Chủ và Phát Triển Việt Nam thực sự sẽ phải cương quyết đấu tranh bằng mọi giá để giành lại vận mệnh Tổ Quốc đang lâm nguy đứng trước bờ vực thẳm, quyết tranh
 đấu giành nắm quyền lãnh đạo đất nước và đẩy Phe đảng cầm quyền hiện nay vào thế đối lập.  Để chuẩn bị cho việc thành lập một lực lượng đối lập có mặt trên toàn quốc nhằm cạnh tranh ôn hoà với Phe đảng của ông Lê Đức Anh, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Chí Vịnh thì ngay từ lúc này từ mỗi Thôn, Ấp, Bản, Khu phố hãy kết nối các công dân yêu nước có cùng chí hướng thành những nhóm nhỏ 2-5 người. LL đối lập yêu cầu Phe đảng cầm quyền hiện nay chấp nhận Tổng Tuyển Cử tự do, bầu lại Quốc Hội và Người đứng đầu đất nước trong thời gian sớm nhất.  Nhân dân cả nước đều nhận thấy rằng Hiến pháp và Pháp luật hiện nay là của Phe đảng cầm quyền, chứ hoàn toàn không phải của toàn thể Nhân dân Việt Nam . Lực lượng đối lập lấy phương châm ôn hoà, đối thoại  làm chủ thuyết đấu tranh. Tuy nhiên, thời gian và hiệu qủa không đạt được thì bắt buộc phải kêu gọi toàn dân xuống đường cùng các phương sách tương ứng để biểu dương sức mạnh và hào khí dân tộc. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu nguy cho đất nước của chúng ta. 
Chúng tôi cũng kêu gọi tất cả lực lượng võ trang trong  đó có những
chiến  sĩ, sĩ quan Công an, Quân đội đang tại ngũ, và  lực  lượng cựu chiến binh từ hai phía của hai miền Nam – Bắc trước 1975  còn có lương tri trong tình tự dân tộc, nghĩa đồng bào đồng thời kêu gọi toàn thể các Tôn giáo  Việt Nam  hãy tiếp tay, hỗ  trợ. Đó là những hành động thực tế nhất để cứu  nguy cho đất nước của chúng  ta. 
LL đối lập xin kêu gọi toàn thể đồng bào hải  ngoại, các đảng phái,
 chính  khách, hiệp hội, phương tiện truyền thông quốc tế hãy  tiếp
 giúp và yểm trợ  cho sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam  chúng tôi.
Tổ Quốc Việt Nam sẽ ghi ơn tất cả sự hy sinh, cống hiến của các Quý vị và các bạn! 
Độc tài cộng sản đã hết thời, Tự do dân chủ cho Việt Nam , Tổ quốc trên hết!

Cột Đèn Mà Đi Được Cũng Bỏ Mà Đi: Ông già Noel rời khỏi Việt Nam

Friday, 24 December 2010 

“Và cũng đêm nay một người ôm kỷ niệm” – Sir Herrström, Đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội hiểu hơn ai hết lời ca khúc này. Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội ở phố Nhà Chung có dư âm buồn của tiếng chuông Chùa ở Tu Viện Bát Nhã tận Lâm Đồng. “Người ơi, đêm nay Noel về. Hồn ơi lắng tai nghe”. Hồn Dân Tộc trong mỗi chúng ta còn hay chết rồi? Người ơi!
Hôm nay, khắp nẻo đường trên quê hương Việt Nam đón Giáng Sinh. Từ các thành phố lớn đến các thôn xóm, các buôn làng, phom, sóc, thôn ấp nhỏ có những cung bậc đón Giáng Sinh khác nhau. Thăm dò trên báo chí và thực tế thì năm nay Giáng Sinh không vui như mọi năm trước.
Đồng tiền Việt nam mất giá do lạm phát, giá cả tiêu dùng tăng lên chóng mặt. Noel năm nay người ta đi coi nhiều hơn là mua sắm. Hình ảnh các cửa hàng ế ẩm ở Hà Nội và Sài Gòn cả tuần trước Giáng Sinh cho thấy năm nay có một Giáng Sinh buồn.
 
Giáo hội Công Giáo đón Giáng Sinh với những chuyện đau lòng ở Thái Nguyên, Nam Định, Cồ Dầu ( Đà Nẵng). Một năm buồn của Giáo Hội.
Các hệ phái Tin Lành bị bắt bớ ở Hà Nội, Tây Bắc và ngay tại Sài Gòn thì mục sư Nguyễn Hồng Quang bị đánh đập không có nhà để đón Giáng Sinh. Ngay cả người chết của Hội Thánh Mennonite Việt Nam cũng không yên với an ninh Sài Gòn.
Một năm mà phong trào dân chủ bị tấn công nhiều nhất. Các phiên tòa xét xử Luật sư lê Công Định, Trần Hùynh Duy Thức, Lê Thăng Long, Nguyễn Tiến Trung gây bất bình dư luận trong và ngòai nước. Chấn động là vụ dàn dựng bẩn thỉu của nhà cầm quyền bắt bớ Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ.
Các trang web không phải của nhà cầm quyền bị tấn công một đợt mới ngay trước lễ Giáng Sinh gây nên một số thiệt hại không đáng kể. Năm nay là năm được mùa đánh phá các trang web cổ xúy phong trào dân chủ ở Việt Nam của an ninh mạng.
Nhưng tiếng chuông Giáng Sinh lại ngân vang trên mọi miền đất nước.
Thêm một tin buồn là MỘT “ÔNG GIÀ NOEL” RỜI KHỎI VIỆT NAM
Đó là tuyên bố trên trang blog của Đại Sứ Thụy Điển tại Hà Nội, trong entry có tên. ” Dark days in Hanoi”. Tạm dịch là: ” Những ngày đen tối ở Hà Nội”.
Thụy Điển đóng cửa đại sứ quán ở Hà Nội sau 40 năm họat động tại Việt Nam.
Entry này hiện có hơn 70 comment( tính đến trưa ngày 24.12.2010)
Tuyên bố này phát đi ngày 23.12.2010.
Quê hương của các giải Nobel ở Bắc Âu đóng cửa một cơ sở ngoại giao tại Hà Nội, Việt Nam. Xứ sở của Ông Già Noel không còn có nhân viên ngoại giao nào ở Bắc Việt Nam kể từ năm 2011. Những món quà của Ông Già Tuyết sẽ khó khăn đến với các chương trình nhân đạo của tổ chức SIDA( không phải HIV/AIDS), các học bổng về báo chí…
Một mùa Giáng Sinh buồn……
“… Đêm nay Giáo Đường vang tiếng kinh cầu.. Nơi xưa mình EM đứng, không thấy bóng ANH đâu Nữa đêm tan lễ, bóng EM bơ vơ trở về .” ( Vợ của Anh Ba SG, Vợ Anh Điếu Cày, Chị Dương Hà vợ anh Hà Vũ) đúng tâm trạng này.
….” Và cũng đêm nay một người ôm kỷ niệm” Sir Herrström, Đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội hiểu hơn ai hết lời ca khúc này.
Nhưng không, kể từ sau 30.4.1975 có hàng triệu người Việt Nam có tâm trạng này mới đúng . Nhất là mỗi mùa Giáng Sinh về. Tiếng chuông Nhà Thờ Lớn Hà Nội ở phố Nhà Chung có dư âm buồn của tiếng chuông Chùa ở Tu Viện Bát Nhã tận Lâm Đồng.
Và dù gì thì cũng: “ Người ơi, đêm nay Noel về. Hồn ơi lắng tai nghe”. Hồn Dân Tộc trong mỗi chúng ta còn hay chết rồi? Người ơi!
 
Dân Làm Báo

Friday, December 17, 2010

Đui và sáng mắt khi làm việc thì đui khi về vườn thì sáng mắt

Nguyễn Văn An -cựu UV/BCTcsVN- công nhận: Hệ thống đãng CS sai lầm từ gốc đến ngọn

Tuesday, December 14, 2010  
Ngô Nhân Dụng

Ông Nguyễn Văn An, cựu ủy viên Bộ Chính Trị Cộng Sản Việt Nam, mới lên tiếng phê bình đảng của ông đã sai lầm từ hệ thống, sai từ gốc đến ngọn, trong một bài phỏng vấn mới xuất hiện trên mạng lưới Tuần Việt Nam ở trong nước.

Góp ý kiến với đại hội đảng năm 2011 sắp tới, ông đề nghị đảng của ông phải “đáp ứng yêu cầu của Cách Mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, giai đoạn đổi mới toàn diện, triệt để, cả kinh tế và chính trị, tức là hoàn thiện ở mức độ cao hơn, mức độ SỬA LỖI HỆ THỐNG.”
Ðọc những lời lẽ trên, phải ghi nhận lòng can đảm, óc tỉnh táo của ông Nguyễn Văn An. Những sai lầm căn bản của đảng Cộng Sản mà ông gọi là “lỗi hệ thống” được phân tích bằng những lý luận rất vững vàng, mạch lạc. Giống như ông đã vẽ ra một bức tranh lớn, lừng lững như một con voi, ai cũng phải nhìn thấy, phải đồng ý, không thể nào bác bỏ được.
Ông Nguyễn Văn An từng làm trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Ðảng, làm chủ tịch Quốc Hội từ 2001 đến 2006, có lúc đã hy vọng lên làm tổng bí thư. Năm nay, ông là người đầu tiên trong hàng ngũ lãnh đạo đảng dám nói thẳng với các đồng chí là đảng đã sai lầm ngay từ nền tảng. Ông giải thích: “Lỗi hệ thống là lỗi từ gốc đến ngọn, từ lý thuyết đến mô hình.”
Từ gốc đến ngọn, từ lý thuyết đến mô hình nghĩa là gì? Hãy nói về mô hình, có thể hiểu là phương cách quản trị việc nước, mà ông Nguyễn Văn An nhấn mạnh về kinh tế. Ông An vạch ra, lỗi lầm trong mô hình kinh tế của đảng ông là chủ trương lấy “chế độ công hữu làm chủ yếu.”
Ðó cũng không phải là một mô hình mới theo. Trong 70 năm qua đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn đề cao vai trò các xí nghiệp quốc doanh, theo mô hình “chế độ công hữu.” Chủ trương đó bắt đầu từ thời Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, kéo tới thời Ðỗ Mười, Nông Ðức Mạnh. Họ chỉ sao chép nguyên cách tổ chức kinh tế tại Nga Xô, Trung Cộng, đem áp dụng vào nước ta mà thôi. Mô hình “chế độ công hữu” này có từ thời Lê Nin, ông chủ trương dùng guồng máy nhà nước thực hiện cuộc cách mạng vô sản thế giới, cái đó gọi tên là “Chủ nghĩa Lê Nin.” Mô hình này sai lầm, 70 năm sau đã đưa Nga Xô đến chỗ sụp đổ. Cộng Sản Trung Quốc thấy thế phải đổi chiều, tự tư bản hóa để tồn tại. Mô hình này sai ra sao, bây giờ không ai cần giải thích nữa. Ðến giờ đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn cứ tiếp tục đề cao doanh nghiệp nhà nuớc, đó là lý do ông Nguyễn Văn An phải lên tiếng.
Nhưng “lỗi mô hình công hữu” này, ông Nguyễn Văn An nói, cũng chỉ là một sai lầm nằm ở tuốt trên ngọn. Phải tìm đến nguồn gốc của nó. Ông An nhắc lại rằng Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn bắt chước Liên Bang Xô Viết, “Mà mô hình của Cộng Hòa Xô Viết thì lại bắt nguồn từ những lý thuyết của chủ nghĩa Marx-Lenin.” Ðó là gốc rễ. Ông nhận xét: “Mô hình (công hữu) lại xuất phát từ một lý thuyết cực đoan (chủ trương rằng): Tư hữu về tư liệu sản xuất là nguồn gốc của mọi sự bóc lột.”
Lời buộc tội thứ hai này chỉ ra mối sai lầm của đảng là đi theo một “lý thuyết cực đoan.” Ðó chính là chủ thuyết của Karl Marx; Marx nói khi các xí nghiệp, nhà máy, thiết bị, vân vân, đều thuộc quyền sở hữu của tư nhân thì giai cấp tư bản xuất hiện, họ bóc lột giới lao động. Vì thế cho nên Lê Nin chủ trương “công hữu,” tức là các phương tiện sản xuất phải thuộc quyền nhà nước.
Tại sao theo ý kiến bác bỏ quyền tư hữu của Karl Marx lại sai lầm? Ông Nguyễn Văn An giải thích: “Sở hữu tư nhân thực chất vẫn là vấn đề dân chủ tự do trên lĩnh vực kinh tế, trong mưu cầu hạnh phúc của mỗi người, nó là cội nguồn cảm hứng, là động lực to lớn cho sự phát triển. Kết quả của nó kỳ diệu như thế nào mọi người đã biết.” Nói cho dễ hiểu, ông An muốn giải thích rằng nếu không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân thì người ta không có động lực tự nhiên để cố gắng làm việc. Do đó, kinh tế chung của cả xã hội sẽ không tiến lên được.
Nhưng không phải chỉ tai hại về hậu quả kinh tế; lý thuyết “cực đoan” này còn tước bỏ những quyền tự do quan trọng của con người, như tự do mưu cầu hạnh phúc. Như ông An nói rõ: Không tôn trọng quyền sở hữu tư nhân thì không ai có quyền tự do về kinh tế, tức là mỗi con người không còn được tự do mưu cầu hạnh phúc. Nói rộng hơn, không có tự do kinh tế thì cũng không có tự do, không có dân chủ gì cả. Ðó là ý nghĩa của câu ông An phát biểu: “Sở hữu tư nhân thực chất vẫn là vấn đề dân chủ tự do...”
Lời phát biểu trên không khác gì những ý kiến của Friedrich Hayek, một nhà kinh tế “tiên tri” đầu thế kỷ 20. Hayek từng viết: “Hệ thống tư hữu tài sản là bảo đảm mạnh nhất cho quyền tự do, không chỉ bảo đảm riêng cho những người có tài sản mà cho cả những người không tài sản.” Bởi vì, như Hayek giải thích: “Bị kiểm soát trong công việc kinh tế mưu sinh sẽ đưa tới bị kiểm soát trên tất cả mọi thứ khác” (To be controlled in our economic pursuits means to be controlled in everything).
Hayek có ảnh hưởng lâu dài hơn Karl Marx. Trong thế kỷ 19, Karl Marx tiên đoán chế độ kinh tế tư bản sẽ tự nó sụp đổ vì những mâu thuẫn từ bên trong. Marx phân tích rất hay về những mâu thuẫn đó; nhưng bài cáo phó của ông về kinh tế tư bản tới giờ vẫn chưa thành sự thật. Một trăm năm sau, Friedrich Hayek, (cũng là một người nói tiếng Ðức di cư sang sống ở London, Anh Quốc), lại tiên đoán rằng chế độ kinh tế kinh tế chỉ huy kiểu cộng sản chắc chắn sẽ đưa tới cảnh con người bị nô lệ hóa. Quả nhiên, nay nhìn lại, ai cũng thấy khi nhà nước nắm trọn quyền kiểm soát kinh tế, như trong các xã hội cộng sản, thì mọi người đã mất hết các quyền tự do, chẳng khác gì nô lệ. Cuốn “Con đường dẫn tới nô lệ” của Hayek, bên Trung Quốc đã dịch hết cho mọi người đọc.
Ông Nguyễn Văn An nói rõ ràng: Chủ nghĩa Lê Nin sai lầm, mà chủ nghĩa Mác cũng sai lầm nốt. Theo hai chủ nghĩa đó là sai từ gốc đến ngọn. Sau khi nghe ông An biện giải, ai cũng phải đồng ý. Phải đi tới kết luận: Người khôn ngoan thì không ai đi theo những con đường sai lầm như thế. Người tử tế thì khi biết mình đã sai là phải sửa đổi ngay, để khỏi tiếp tục làm hại đồng bào.
Nhờ đâu mà ông Nguyễn Văn An đã nhìn ra những sự thật trên đây? Nhờ ông đã “giác ngộ” được tính chất “kỳ diệu” của quyền sở hữu tư nhân. Sau khi đã chứng kiến suốt 20 năm “đổi mới” các đồng chí cộng sản hồ hởi làm giầu, khẩn trương tích lũy, năng nổ thu vét tài sản của toàn dân về trong tay mình và đồng đảng, thì đến người khiếm thị cũng phải nhìn ra là “quyền tư hữu” tạo ra những tác động tâm lý, kinh tế, chính trị rất kỳ diệu. Nó kỳ diệu như ma ấy. Nó có thể biến người thành ma, biến ma thành người. Khi vấp vào nó, không vỡ đầu cũng sứt trán; ở Liên Xô cả cái chủ nghĩa Lê Nin đứng khựng lại. Kinh tế nhà nước tại Nga bị chết cóng suốt mấy thế hệ vì họ không công nhận quyền tư hữu. Ngược lại, khi đã giác ngộ quyền tư hữu, dùng quyền tư hữu làm động cơ phát triển, các đồng chí cộng sản Trung Hoa đã quyết chí làm giầu, ào ào tư bản hóa, họ bỗng nhiên thành tỷ phú hết. Họ đã lãnh đạo giai cấp vô sản Trung Hoa biến hóa thành những bàn tay làm gia công cho các xí nghiệp Mỹ, Ðài Loan, sung sướng lãnh đồng lương “bóc lột” để cung cấp hàng hóa rẻ cho thế giới tư bản. Cái gọi là quyền tư hữu nó quả thật là một con ma kỳ diệu.
Giác ngộ sự thật này, nó quý hơn những người vẫn khoe đã giác ngộ chủ nghĩa Mác Lê Nin khi đi tìm đường cứu nước. Ông Nguyễn Văn An đã kết luận là phải dứt khoát, không do dự: “Do đó chúng ta phải dứt khoát từ bỏ lý thuyết và mô hình sai trái từ gốc này, vì hậu quả của nó gây ra như thế nào mọi người đều đã biết. Ðó là con đường trở về thời kỳ thiếu thốn và đói khổ.” Xin nhấn mạnh hai chữ: TRỞ VỀ. Ông Nguyễn Văn An đã xác nhận: Trước khi “đổi mới” theo kinh tế tư bản, Cộng Sản Việt Nam đã đưa đất nước đến cảnh thiếu thốn và đói khổ. Dân ta không ai muốn phải “trở về” cảnh đói khổ đó nữa.
Năm 1989 ông Trần Xuân Bách đã nhìn thấy cái sai của Ðảng Cộng Sản, ông viết: “Tư duy khoa học đang thay thế tư duy giáo điều... Ðổi mới là cái gương để ta soi. Nếu mặt bị nhơ chỉ rửa mặt chứ không phải là đập vỡ gương. ” Nhưng ông Trần Xuân Bách vẫn còn mơ mòng tin tưởng vào chủ nghĩa Mác, ông viết: “Ta phải nhận lỗi trước Mác vì đã làm méo mó chủ nghĩa Mác.” Năm nay, ông Nguyễn Văn An, trong phạm vi hiểu biết của mình, đã vạch ra một sai lầm lớn của Marx. Sai lầm từ gốc, chứ không phải đã bị ai làm méo mó cả. Phải công nhận thái độ của ông An can đảm và tiến bộ về mặt tri thức.
Ông An nhắc đi nhắc lại nhiều lần, rải rác trong bài phỏng vấn những câu này: “Ðảng (Cộng Sản) của mình đã phạm sai lầm có tính hệ thống mà không nhận ra được và không khắc phục được... Ðảng đã trở thành lực lượng cản trở dân chủ, tự do, cản trở sự phát triển của xã hội. Ðảng đã trở thành ông Vua tập thể, đã trở thành Ðảng trị... Ðảng đã trở thành lực lượng cản trở sự phát triển của xã hội, đã trở thành lực cản của sự phát triển tự do dân chủ của xã hội. Nói theo tinh thần của Marx thì cái gì cản trở sự phát triển là thối nát, là phản động.”
Nói đến như thế thật là đã nghĩ hết lẽ, nói hết lời. Ðọc những phân tích và nhận định của ông Nguyễn Văn An, bất cứ ai có trí khôn ở mức bình thường cũng sẽ phải đi tới một kết luận sáng suốt, tất yếu. Khi phân tích cảnh Liên Xô sụp đổ, ông Nguyễn Văn An công nhận: “Chính những người cộng sản chân chính cũng muốn giải tán đảng đã biến chất để xây dựng đảng mới, để sửa lỗi hệ thống, để làm lại từ đầu.” Có ai ở Việt Nam còn muốn làm “những người cộng sản chân chính” như vậy hay không? Hãy đứng lên xóa bỏ cái đảng “vua tập thể” “thối nát, phản động” này đi, làm lại từ đầu đi! Phải ngăn không cho nó nắm độc quyền chính trị tiếp tục làm vua nữa! Không nên để cho nó kéo dài việc “cản trở dân chủ, tự do, cản trở sự phát triển của xã hội” nữa!
Nhưng rất tiếc, tất cả công trình phân tích của ông Nguyễn Văn An lại dẫn ông tới những kết luận hoàn toàn “hụt hẫng!” Ðọc rồi không thể tin được là con người phân tích rành rọt ở trên cũng là con người đang nêu ra các đề nghị ở dưới. Hãy cử một thí dụ: Ông An bảo đảng Cộng Sản “phải giành quyền lãnh đạo thông qua tranh cử trong đảng và ngoài xã hội.” Nhưng ông lại không chấp nhận có thêm một đảng chính trị nào khác ngoài đảng Cộng Sản cả. Thế thì khi tranh cử là ai tranh cử với ai?
Ðề nghị của ông An, nghe xong phải bật cười: Ðảng Cộng Sản sẽ tranh cử với đảng Cộng sản! Ông đề nghị mỗi lần bầu cử mỗi chức vụ đảng Cộng Sản sẽ đưa ra nhiều ứng cử viên tranh cử với nhau, mỗi ứng cử viên có một chương trình, để cho dân chúng “tự do” bỏ phiếu chọn một trong mấy người đó! Cuối cùng, ai đắc cử cũng thế, đảng Cộng Sản vẫn tiếp tục cai trị! Ðọc tới đây, nếu không bật cười thì chắc ai cũng phải lắc đầu: Rõ chán! Thà rằng theo lối ở thành phố Athena ngày xưa, chỉ bốc thăm chọn người đắc cử theo lối xổ số, dân không cần đi bỏ phiếu, coi bộ còn thành thật và đỡ tốn kém hơn!

Trong phần phân tích, các lý luận của ông An sắc xảo, vững vàng, đồ sộ, lừng lững như một con voi, ai cũng bị thuyết phục. Khi ông nói cần “đổi mới toàn diện, triệt để, cả kinh tế và chính trị,” ai nghe cũng tưởng là thật! Vậy mà cuối cùng, đến những đề nghị thay đổi cụ thể, thì những ý kiến của ông vừa lúng túng vừa hời hợt, không còn sâu sắc và gắn bó chặt chẽ như phần đầu nữa. Như thể con voi của ông có cái đầu rất to nhưng không có được một cái đuôi tương xứng.
Có cái gì khúc mắc trong đầu khiến ông không gỡ ra được? Chúng tôi sẽ bàn thêm trong một bài sau.